Bản in     Gởi bài viết  
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO (Tiếp theo) 

 

   Chương VI. HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO; HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN, GIÁO DỤC, Y TẾ, BẢO TRỢ XÃ HỘI, TỪ THIỆN, NHÂN ĐẠO CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO (Từ Điều 43 - Điều 55)

    1. Hoạt động tôn giáo
    1.1. Thông báo danh mục hoạt động tôn giáo
    Nếu như Pháp lệnh quy định chỉ tổ chức tôn giáo cơ sở trước ngày 15/ 10 hằng năm có trách nhiệm đăng ký hoạt động tôn giáo diễn ra tại cơ sở đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tổ chức tôn giáo cơ sở thì nay Luật quy định tất cả các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo điều phải thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 điều 43 của Luật chậm nhất lả 30 ngày kể từ ngày được công nhận, chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chỉ thực hiện một lần. Đối với hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã được thông báo thì người đại diện tổ chức có trách nhiệm thông báo bổ sung.
Đối với tổ chức tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo trước ngày Luật có hiệu lực, chậm nhất 30 ngày kể từ ngày Luật có hiệu lực có trách nhiệm thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm theo quy định tại khoản 2 Điều 43 của Luật đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây là quy định tạo điều kiện thuận lợi cho cả cơ quan có thẩm quyền cũng như cho các tổ chức tôn giáo khi thực hiện thông báo hoạt động tôn giáo.

    1.2. Hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
    Pháp lệnh gộp cả hai nội dung hội nghị thường niên và đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức tôn giáo cơ sở để điều chỉnh trong cùng điều luật và các tổ chức khi thực hiện các quy định này tùy thuộc hội nghị, đại hội cấp nào sẽ được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương).
Khác với các quy định của Pháp lệnh, Luật đã tách hội nghi thường niên và đại hội để điều chỉnh ở các điều luật khác nhau. Nếu là hội nghị thường niên thì tổ chức chỉ cần thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo ở Trung ương) chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức hội nghị: nếu là đại hội, tổ chức phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi tổ chức đại hội. Đối với việc tổ chức đại hội, Luật bổ sung thêm đối tượng được tổ chức đại hội là tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.
Bên cạnh đó, Luật bổ sung quy định về việc tổ chức hội nghị liên tôn giáo, hội nghị có yếu tố nước ngoài của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Đối với các hội nghị này, trước khi thực hiện các tổ chức có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương. Đây là các hội nghị hiện nay các tổ chức thực hiện nhiều nhưng Pháp lệnh hiện chưa có quy định vì vậy rất khó cho các tổ chức thực hiện.
Về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời các tổ chức khi tổ chức đại hội được nâng lên 25, 30, 45 ngày tùy thuộc thẩm quyền của tổ chức, để các cơ quan có thời gian phối hợp nghiên cứu, thẩm định.

    1.3. Cuộc lễ, giảng đạo ngoài cơ sỏ tôn giáo, địa điểm hợp pháp
Pháp lệnh quy định cuộc lễ, giảng đạo được điều chỉnh bởi các quy định khác nhau từ trình tự, thủ tục, thẩm quyền đến thời gian cơ quan nhà nước có thẩm quyền trả lời. Nếu là cuộc lễ của tổ chức tôn giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo, tùy sự tham gia của tín đồ mà thẩm quyền chấp thuận thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; đối với giảng đạo, truyền đạo của chức sắc, nhà tu hành ngoài cơ sở tôn giáo, thẩm quyền chấp thuận sẽ là Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Luật đã gộp cả hai nội dung cuộc lễ, giảng đạo để điều chỉnh trong cùng một điều với hai khoản khác nhau ( bỏ truyền đạo vì đây là quyền của tổ chức tôn giáo), bổ sung quy định nếu giảng đạo ngoài địa bàn phụ trách, cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp đã được đăng ký, chức sắc, chức việc, nhà tu hành phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nội dung mới tiếp theo của Luật so với Pháp lệnh đó là thẩm quyền chấp thuận cuộc lễ, giảng đạo thay vì phải được sự chấp thuận của một trong hai cơ quan là Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thì hiện nay thẩm quyền này Luật giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh.
Về thời hạn cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời tổ chức tôn giáo khi tổ chức cuộc lễ; trả lời chức sắc, chức việc, nhà tu hành khi thực hiện giảng đạo được nâng lên 25 hoặc 30 ngày tùy thuộc vào thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có trách nhiệm hổ trợ đảm bảo an ninh, trật tự cho cuộc lễ, giảng đạo.

    2. Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
Đây là một trong những mục quy định có nhiều nội dung mới, được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đánh giá là điểm sáng, tiến bội của Luật. Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh, Luật đã có nhiều đổi mới, bổ sung, các quyền cụ thể:

    2.1. Sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam
Pháp lệnh quy định về quyền này cho người nước ngoài, tuy nhiên họ chỉ được sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam; nếu người nước ngoài có nhu cầu tập trung để sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo hợp pháp ở Việt Nam họ sẽ có trách nhiệm gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để đề nghị. Trong thực tế khi thực hiện quyền này, nhiều cơ sở tôn giáo của Việt Nam không đủ rộng; chức sắc, nhà tu hành không biết nhiều ngôn ngữ để giúp họ thực hiện các lễ nghi tôn giáo; nhiều tôn giáo người nước ngoài theo nhưng hiện ở Việt Nam chưa có;… điều này đã hạn chế quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài.
Khắc phục tình trạng này, Luật quy định người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung. Như vậy, họ không chỉ được sịnh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo mà còn được thuê địa điểm hợp pháp khác để thực hiện quyền này.

    2.2. Hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh, Luật đã quy định chủ thể được mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt động tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo là tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc ( Pháp lệnh quy định chủ thể là tín đồ, nhà tu hành, chức sắc); bổ sung hoạt động mà tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện, đó là “ hoạt động tôn giáo”; để tránh các cá nhân mạo danh chức sắc tôn giáo nước ngoài, Luật quy định thành phần hồ sơ bổ sung “ Văn bản chứng minh chức danh hoạt động tôn giáo của người được mời”; thẩm quyền chấp thuận được giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nếu mời tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện tôn giáo ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương nếu mời tổ chức, cá nhân vào Việt Nam để thực hiện hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh hoặc hoạt động quan hệ quốc tế về tôn giáo.

    2.3. Việc mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo của tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
Luật cũng quy định tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo. Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này, tổ chức phải tuân thủ các quy định tại khoản 2, 3 và chức sắc, nhà tu hành phải tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 48 của Luật. Đây là quy định mới của Luật so với Pháp lệnh.

    2.4. Việc mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo của nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung
Khác với quy định của Pháp lệnh, Luật quy định nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung được trực tiếp mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo khi có nhu cầu ( Pháp lệnh quy định việc mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo phải thông qua tổ chức tôn giáo ). Khi thực hiện quyền này, nhóm người nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị theo quy định tại khoản 2 Điểu 48 đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài khi giảng đạo cho nhóm người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tập trung phải tuân thủ quy định tại khoản 6 Điều 48 của Luật.

    2.5. Người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam
Trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh, Luật quy định người nước ngoài có thể gửi hồ sơ (khi đang ở tại Việt Nam hoặc ở nước ngoài) đăng ký học tại các cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi đã vào học người nước ngoài phải là người cư trú hợp pháp tại Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, tự nguyện đăng ký học và được cơ sở đào tạo tôn giáo đề nghị với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương.

   2.6. Tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài
Nếu như Pháp lệnh quy định tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị, thì Luật quy định chỉ có tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài mới là chủ thể có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị. Quy định này nhằm đảm bảo được sự quản lý thống nhất, có tổ chức cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.

    2.7. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài
Luật quy định các trường hợp phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài bao gồm tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho công dân Việt Nam ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định điều kiện của người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử; trách nhiệm của tổ chức tôn giáo có người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử hoặc phong phẩm suy cử phẩm vị cho người nước ngoài; trách nhiệm đăng ký của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc đối với trường hợp công dân Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử ở nước ngoài khi về Việt Nam làm chức sắc, chức việc.

    2.8. Hoạt động quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ
Luật quy định quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ được thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế nhưng phải theo hiến chương của tổ chức tôn giáo và phù hợp với pháp luật Việt Nam; khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của quốc gia có liên quan.

    2.9. Gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài
Đây là quy định mới của Luật, mặc dù trong thực tiễn hoạt động của các tổ chức tôn giáo đã xuất hiện các hoạt động này nhưng Pháp lệnh chưa quy định. Để phù hợp với tình hình thực tiễn, Luật quy định trước khi gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định khi chấm dứt tham gia tổ chức tôn giáo nước ngoài, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày chấm dứt.

   3. Hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo.
    3.1. Hoạt động xuất bản, sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm
Luật quy định, tổ chức tôn giáo được thực hiện hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật về xuất bản và quy định khác của pháp luật.

    3.2. Hoạt động giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo
Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan./.

Văn Minh - MT tỉnh

 

[Trở về]